Chế Lan Viên là ai

Chế Lan Viên là ai? Tìm hiểu tiểu sử và con đường sự nghiệp

Chế Lan Viên là ai? Hay Chế Lan Viên quê ở đâu? Đây là những câu hỏi của nhiều người khi tìm hiểu về nhà thơ này. Bài viết dưới đây sẽ chia sẻ đến bạn đọc về tiểu sử và con đường sự nghiệp của nhà thơ Chế Lan Viên.

Nội dung tóm tắt

Chế Lan Viên là ai và tiểu sử cuộc đời

Chế Lan Viên có tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh năm 1920 tại Cam Lộ, Quảng Trị. Ông là một nhà thơ, nhà văn hiện đại của nền văn học Việt Nam. Bút danh Chế Lan Viên mang ý nghĩa là một bông hoa lan trong khu vườn của dòng họ Chế. Đây là một dòng họ vua chúa của dân tộc Chăm ở nước Chiêm Thành xưa. Ngoài ra, ông còn có bút danh khác là Thạch Hãn và Chàng Văn thường được ông ký tên trên các bài báo và các bài viết ngắn in trên báo.

Chế Lan Viên lớn lên và đi học ở Bình Định.Từ năm 12, 13 tuổi, ông đã bắt đầu làm thơ. Năm 17 tuổi, ông xuất bản tập thơ đầu tay “Điêu tàn” với bút danh Chế Lan Viên. Từ đây, tên tuổi của ông vụt sáng trên thi đàn Việt Nam.

Năm 1939, Chế Lan Viên ra học tại Hà Nội, sau đó vào Sài Gòn làm báo và ra Thanh Hóa dạy học. Năm 1942, ông cho ra đời tác phẩm “Vàng sao”, tập văn triết luận về đời với màu sắc siêu hình, huyền bí.

Khi cách mạng tháng Tám nổ ra, ông tham gia phong trào Việt Minh tại Quy Nhơn, rồi ra Huế tham gia Đoàn xây dựng cùng với Lưu Trọng Lư, Hoài Thanh, Đào Duy Anh. Trong thời kỳ này, Chế Lan Viên viết bài và làm biên tập cho các báo Cứu quốc, Kháng chiến, Quyết thắng. Phong cách thơ của ông giai đoạn này cũng chuyển dần về trường phái hiện thực. Tháng 7/1949, trong chiến dịch Tà Cơn – đường 9 (Quảng Trị), ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.

Chế Lan Viên là aiChế Lan Viên là ai? Tìm hiểu tiểu sử và con đường sự nghiệp

Năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc và làm biên tập viên cho báo Văn học. Từ năm 1956 – 1958, ông công tác ở phòng văn nghệ – Ban tuyên huấn trung ương. Đến cuối năm 1958, ông trở lại làm biên tập tuần báo Văn học (sau là báo Văn nghệ). Từ năm 1963, ông là ủy viên thường vụ Hội nhà văn Việt Nam, ủy viên ban thư ký Hội nhà văn Việt Nam. Bên cạnh đó, ông cũng là đại biểu Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa các khóa IV, V và VI, ủy viên Ban văn hóa – giáo dục của quốc hội.

Sau năm 1975, Chế Lan Viên vào sống tại TP Hồ Chí Minh. Ông qua đời ngày 19/06/1989, tại Bệnh viện Thống Nhất, TP Hồ Chí Minh, hưởng thọ 69 tuổi. Năm 1996, ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

Trong cuộc đời sáng tác, nhà thơ Chế Lan Viên để lại nhiều tác phẩm giá trị ở cả thể loại thơ, văn, tiểu luận phê bình. Đáng chú ý là các tập thơ: “Điêu tàn”, “Ánh sáng và phù sa”, “Những bài thơ đánh giặc”, “Hoa ngày thường – Chim báo bão”, “Hoa trên đá”, “Đối thoại mới”, các tập văn “Vàng sao”, “Những ngày nổi giận”, “Bác về quê ta”, “Giờ của đô thành”… Trong đó, có nhiều bài thơ được các thế hệ độc giả yêu mến như “Tiếng hát con tàu”, “Người đi tìm hình của nước”, “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?”…

Sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Chế Lan Viên

Chế Lan Viên là nhà thơ nổi bật của phong trào thơ mới, với phong cách sáng tác khác lạ trên văn đàn Việt Nam. Các tác phẩm thơ của ông là sự kết tinh giữa âm hưởng của thời đại, sự phá cách của ngoại lai và nét ân tình của người Việt Nam. 

Con đường thơ của Chế Lan Viên trải qua nhiều biến động, nhiều bước ngoặt với những trăn trở, tìm tòi không ngừng của nhà thơ. Phong cách thơ của ông được chia thành hai giai đoạn:

– Trước cách mạng tháng Tám: Thơ Chế Lan Viên là một thế giới đúng nghĩa “trường thơ loạn” với sự kinh dị, thần bí, bế tắc của thời Điêu tàn. Đó là những hình ảnh về xương, máu, sọ người, với những cảnh đổ nát, với tháp Chàm. Những tháp Chàm “điêu tàn” là một nguồn cảm hứng lớn đáng chú ý của nhà thơ. Qua những phế tích đổ nát và không kém phần kinh dị trong thơ của ông, ta thấy ẩn hiện hình bóng của một vương quốc hùng mạnh thời vàng son, cùng với nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ.

– Sau Cách mạng tháng Tám: Từ giai đoạn này, thơ Chế Lan Viên đã đến gần với cuộc sống nhân dân và đất nước, thấm nhuần ánh sáng của cách mạng. Trong các sáng tác thời kỳ này của ông đã có những thay đổi rõ rệt. Thời kỳ 1960 – 1975, thơ Chế Lan Viên mang đậm khuynh hướng sử thi hào hùng, với chất chính luận và tính thời sự. Thời kỳ sau 1975, thơ của ông lại dần trở về với đời sống, cùng những sự trăn trở trong cái “tôi”.

Có thể nói, trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình, Chế Lan Viên đã viết nên những vần thơ đầy trí tuệ và giàu tính triết lý. Ông luôn là nhà thơ tiên phong và tiêu biểu của phong trào Thơ mới, thơ ca kháng chiến và thơ ca Việt Nam sau năm 1975.

Đặc biệt, bài thơ nổi tiếng được đưa vào chương trình THPT là “Tiếng hát con tàu” được Chế Lan Viên viết vào năm 1960 và in trong tập Ánh sáng và phù sa. Đó là thời điểm miền Bắc sau những tháng năm kháng chiến thắng lợi. Trong hoàn cảnh đó, bài thơ đã được ra đời và góp phần vào những tác phẩm thơ hay viết về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bài thơ đã thể hiện cái nhìn đầy mới mẻ của Chế Lan Viên về cuộc đời, con người trong giai đoạn mới. Bên cạnh đó, tác phẩm còn khiến cho người đọc ấn tượng bởi màu sắc triết lí, sự gần gũi. 

Chế Lan Viên là aiChế Lan Viên là ai? Tìm hiểu tiểu sử và con đường sự nghiệp

Một số tác phẩm tiêu biểu của Chế Lan Viên

Chế Lan Viên không chỉ là một nhà thơ lớn, mà còn là nhà nghiên cứu lý luận, nhà phê bình văn học nghệ thuật hiện đại thế kỷ XX. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông đã cho ra đời rất nhiều tác phẩm đóng góp vào kho tàng văn thơ Việt Nam trong giai đoạn kháng chiến.

– Tác phẩm thơ tiêu biểu:

  • Điêu tàn
  • Gửi các anh
  • Ánh sáng và phù sa
  • Hoa ngày thường – Chim báo bão
  • Đối thoại mới
  • Ngày vĩ đại
  • Những bài thơ đánh giặc
  • Hoa trước lăng Người
  • Dải đất vùng trời
  • Hoa trên đá
  • Hái theo mùa
  • Tuyển tập thơ Chế Lan Viên (tập I, 1985; tập II, 1990)
  • Ta gửi cho mình (1986)
  • Di cảo thơ I, II, III
  • Tuyển tập thơ chọn lọc

– Tác phẩm văn:

  • Vàng sao
  • Nàng tiên trên mặt đất
  • Thăm Trung Quốc (bút ký)
  • Những ngày nổi giận (bút ký,)
  • Giờ của đô thành (bút ký)
  • Bác về quê ta (tạp văn)

– Tiểu luận phê bình tiêu biểu:

  • Kinh nghiệm tổ chức sáng tác
  • Nói chuyện thơ văn
  • Vào nghề
  • Bay theo đường bay dân tộc đang bay
  • Nghĩ cạnh dòng thơ
  • Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân
  • Ngoại vi thơ
  • Nàng và tôi
  • Phê bình văn học
  • Suy nghĩ và bình luận

Trong các chặng đường sáng tác, phong cách thơ Chế Lan Viên luôn mang những nét độc đáo riêng biệt. Thơ ông là sức mạnh trí tuệ được biểu hiện trong khuynh hướng suy tưởng – triết lý. 

Tổng hợp

Facebook Comments Box
Rate this post